Phân vi lượng gồm các hỗn hợp những chất hóa học nhằm cung cấp các loại nguyên tố vi lượng cho cây. Bên cạnh phân vi lượng, nhiều khi người ta còn bổ sung các nguyên tố siêu vi lượng, đất hiếm, chất kích thích sinh trưởng.
Thiếu các nguyên tốt vi lượng, cây phát triển không toàn diện, tuy nếu bón quá dư thừa phân vi lượng các hoạt động của cây trở nên rối loạn. Hơn nữa, nó còn ảnh hưởng tới sức khỏe của con người và vật nuôi khi sử dụng sản phẩm nông sản. Phân vi lượng có thể sử dụng để bón vào đất, trộn với các loại phân khác để bón. Có thể bón phân vi lượng lên lá cây, ngâm hạt giống, dùng để nhúng rễ, nhúng hom trước khi trồng. Các loại phân vi lượng:
Phân đồng (Cu): Đồng tham gia vào thành phần cấu tạo enzim thúc đẩy chức năng hô hấp, chuyển hoá chất dinh dưỡng, thúc đẩy quá trình hình thành vitamin A trong cây, loại vitamin rất cần cho sự phát triển bình thường của hạt. Đồng làm tăng hiệu lực của kẽm, mangan, Bo.
Phèn xanh (CuS04.7H20) có thể sử dụng làm phân bón có đồng. Trong phèn xanh có 25,9% Cu. Phèn xanh là những tinh thể màu xanh, tơi, rời, dễ hoà tan trong nước. Phèn xanh được sủ dụng để bón vào đất với lượng 10 – 25kg/ha. Phèn xanh cũng có thể dùng để xử lý hạt giống với dung dịch có nồng độ 0,01 – 0,02% hoặc phun lên cây với nồng độ 0,02 – 0,05%.
Phân sắt (Fe): Có vai trò quan trọng trong quá trình quang hợp của cây. Cây thiếu sắt không có khả năng tổng hợp được chất diệp lục, lá bị hủy hoại. Thiếu sắt nặng làm cho cây chết. Triệu chứng đầu tiên của tình trạng thiếu sắt là lá chuyển sang màu vàng, nhưng gân lá vẫn giữ màu xanh. Trong nông nghiệp, để bổ sung sắt cho đất thường người ta tăng cường bón phân chuồng, phân xanh.
Cây trồng có những dấu hiệu thiếu sắt, người ta thường dùng một số hợp chất có chứa sắt như sunphat sắt, cácbonat sắt, sunphat araôn sắt, lignin sunfonat sắt để phun lên cây nồng độ 1 – 3%. Những loại cây có yêu cầu về sắt nhiều như cam, quít, nho, lạc, đậu tương, các loại rau…
Phân kẽm (Zn): Đây là chất tham gia vào việc thúc đẩy quá trình hình thành các hoocmôn trong cây, làm tăng tính chịu nóng, chịu hạn và chống lại sự xâm nhập của sâu bệnh hại. Kẽm làm tăng khả năng tổng hợp prôtit, các axit nucleic, thúc đẩy việc sử dụng và chuyển hóa đạm trong cây. Cây thiếu kẽm giảm năng suất rõ rệt.
Sunphat kẽm (ZnSO4.7H20): Phân có dạng tinh thể màu trắng, các tinh thể phân tan trong nước. Phân chứa 22,8% Zn. Phân vi lượng này được sử dụng đề xử lý hạt giống với nồng độ 0,1%, phun lên lá với nồng độ 0,02-0,05%. Trong quá trình chăm sóc, nếu bón quá nhiều vôi, nhiều lân cũng thường xảy ra trường hợp thiếu kẽm. Đất kiềm, đất trung tính cũng thường hay thiếu kẽm.
Phân bo (B): Đây là chất đảm bảo cho hoạt động bình thường của mô phân sinh ngọn cây. Bo thúc đẩy quá trình tổng hợp các prôtit, lignin. Nó còn tham gia vào việc chuyển hoá các hydrat cacbon, thúc đẩy quá trình phân chia tế bào. Bo tăng cường việc hút Ca của cây, đảm bảo cân đối tỷ lệ K:Ca trong cây. Bón bo cho cây vào thời kỳ chuẩn bị ra hoa sẽ làm tăng tỷ lệ đậu hoa, quả.
Phân Borat natri (Na2B407.10H20) có hàm lượng B trong phân là 11,3%, dùng để phun lên lá, xử lý hạt giống.
Phân borat magiê, chứa 1,4% B và 19% Mg. Phân được sử dụng để bón vào đất hoặc phun lên lá.
Phân axit boiric (H2Bo3) chứa 17,5% B, có dạng tinh thể màu trắng, dễ tan trong nước, phân thường ở trong trạng thái tơi rời, dễ sử dụng để bón cho cây. Người ta sử dụng loại phân này để phun lên lá với nồng độ 0,03 – 0,05%, xử lý hạt giống, bón cho những nơi có hàm lượng B dễ tiêu dưới 0,2mg/100g đất.
Nhìn chung cây bị thiếu B khả năng sinh trưởng kém, lá nhỏ, có màu nhạt, cây đâm chồi lách nhiều, rễ phát triển kém…
Phân côban (Co): Loại phân vi lượng này rất cần cho quá trình cố định đạm không khí của vi sinh vật. Co làm tăng khả năng hút lân của cây. Co rất thích hợp với các loài cây có nhiều vitamin B12. Nó còn làm tăng chất lượng thức ăn gia súc, giúp cho gia súc tiêu hoá thức ăn, làm tăng số lượng hồng cầu trong máu gia súc. Bởi vậy, ngưòi ta thường bón phân vi lượng này lên trên các đồng cỏ.
Phân mangan (Mn): Tham gia vào việc thúc đẩy cây nảy mầm sớm, làm cho hệ rễ khoẻ, cây ra hoa kết quả nhiều, hạt chắc mẩy. Nên bón phân vào giai đoạn cây đang ra hoa. Mangan có tác dụng tăng hiệu lực phân lân, thúc đẩy quá trình hô hấp trong cây, xúc tiến quá trình oxy hoá các hyđrat cacbon tạo thành CO2 và H2O và tăng hoạt tính của men trong quá trình tổng hợp chất diệp lục.
Phân sunphat mangan (MnSO4.5H20) chứa 24,6% mangan. Đây là loại phân vi lượng ít tan trong nước, dùng để xử lý hạt giống, phun lên lá, bón vào đất.
Phân molipđen (Mo): Đây là loại phân vi lượng có vai trò quan trọng trong việc làm tăng khả năng quang hợp của cây và tổng hợp vitamin C trong cây. Mo giúp cây hấp thụ được nhiều N và giúp cho quá trình cố định đạm. Mo rất cần cho vi sinh vật cố định đạm cộng sinh ở rễ cây và giúp cho sự phát triển nhiều nốt sần ở rễ cây họ đậu. Mo làm tăng hiệu lực của phân lân.
Molipdat natri (NaMoO4. 2H20) chứa 39% Mo, Molipdat Amôn (NH4)2.Mo7O3.4H2O) chứa 54% Mo. Hai loại phân vi lượng này có dạng tinh thể dùng để bón cho nhiều loại cây trồng khác nhau, trên nhiều loại đất khác nhau. Trường hợp đất chua, Mo làm tăng hiệu quả của việc bón vôi và phân lân. Người ta thường sử dụng phân vi lượng này để xử lý hạt giống, phun lên lá với nồng độ 0,06 – 0,10%.
VHDT